Bảng quản trị X-barR Phần 2
Lý thuyết về biểu đồ kiểm soát ban đầu được đề xuất bởi Tiến sĩ Walter Shewhart. Tiến sĩ Shewhart cho rằng trong quá trình sản xuất, nguyên nhân gây ra sự khác biệt chất lượng (biến đổi sản phẩm) được chia thành nguyên nhân cơ hội (biến đổi tự nhiên) và nguyên nhân không phải cơ hội (biến đổi không tự nhiên). Trong quá trình sản xuất, biến đổi tự nhiên luôn tồn tại (nhưng phải trong phạm vi kiểm soát), khi một quá trình chỉ có nguyên nhân cơ hội, chúng ta gọi quá trình đó là ổn định. Nguyên nhân không phải cơ hội thỉnh thoảng xuất hiện, nhưng tác động của nó đến quá trình là rất lớn. Nếu quá trình bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân không phải cơ hội, thì quá trình đó không ổn định hoặc mất kiểm soát. Sử dụng biểu đồ kiểm soát, chúng ta có thể giúp tìm ra nguyên nhân của biến đổi và thực hiện hành động cải thiện.
Để sử dụng biểu đồ kiểm soát một cách hiệu quả, trước tiên cần thiết lập một tiêu chuẩn để đo lường xem quá trình có bất thường hay nằm trong kiểm soát, và điểm tiêu chuẩn này chính là giới hạn kiểm soát (UCL, LCL). Giới hạn kiểm soát của biểu đồ kiểm soát được xác định bằng cách xoay hình phân phối chuẩn 90 độ, tạo đường trung tâm (CL) tại giá trị trung bình, và tạo giới hạn kiểm soát trên (UCL) và dưới (LCL) tại giá trị trung bình cộng trừ ba lần độ lệch chuẩn.
Khi quá trình nằm trong kiểm soát:
- Tất cả các điểm trên biểu đồ kiểm soát đều nằm trong giới hạn trên và dưới.
- Xu hướng phân bố điểm không có hình dạng đặc biệt.
Ngược lại, khi quá trình bất thường:
- Một số điểm sẽ vượt ra ngoài giới hạn trên và dưới (UCL, LCL), hoặc nằm trên giới hạn trên và dưới.
- Mặc dù tất cả các điểm đều nằm trong giới hạn trên và dưới, nhưng chúng tạo thành một hình dạng sắp xếp đặc biệt, ví dụ như lệch về một phía.
Đối với những điểm vượt ra ngoài giới hạn trên và dưới, điều này cho thấy quá trình đang trong trạng thái bất thường, cần phải thực hiện hành động cải thiện. Nếu biểu đồ kiểm soát nằm trong trạng thái kiểm soát, thì quá trình đang ở trạng thái ổn định. Để duy trì trạng thái này, các đường kiểm soát phân tích sẽ được kéo dài để tạo biểu đồ kiểm soát dùng cho quản lý quá trình, gọi là biểu đồ kiểm soát cho quản lý. Tiêu chuẩn đánh giá như sau:
- Có hơn 25 điểm liên tiếp xuất hiện trong giới hạn kiểm soát.
- Trong 35 điểm liên tiếp, không có quá một điểm nằm ngoài giới hạn kiểm soát.
Trong 100 điểm liên tiếp, không có quá hai điểm nằm ngoài giới hạn kiểm soát.
Nguyên tắc diễn giải như sau:
Trường hợp 1: Có một điểm ngoài vùng A, có thể do thay đổi nguyên liệu, máy móc, thiết bị, năng lực nhân viên, dụng cụ đo lường gây ra sự thay đổi quá trình.

Trường hợp 2: Ba điểm liên tiếp cùng một phía có hai điểm trong vùng A hoặc ngoài vùng A, có thể do đưa vào nguyên liệu mới, thiết lập công cụ máy móc mới gây ra sự lệch quá trình.
Trường hợp 3: Năm điểm liên tiếp cùng một phía có bốn điểm trong vùng B hoặc ngoài vùng B, có thể do đưa vào nguyên liệu mới, thiết lập công cụ máy móc mới gây ra sự lệch quá trình.
Trường hợp 4: Sáu điểm liên tiếp tăng hoặc giảm liên tục, có thể do công nhân mệt mỏi, dụng cụ hoặc thiết bị dần mòn hoặc hỏng hóc, nhiệt độ hoặc độ ẩm dần thay đổi gây ra.
Trường hợp 5: Tám điểm nằm hai bên đường trung tâm, nhưng không có điểm nào trong vùng C, có thể do sự khác biệt lớn trong chất lượng nguyên liệu, dữ liệu của hai hoặc nhiều máy được vẽ cùng nhau, phương pháp kiểm tra hoặc thiết bị có sự khác biệt lớn.
Trường hợp 6: Chín điểm liên tiếp ở cùng một phía của đường trung tâm, có thể do sự ổn định của quá trình đã có sự lệch lớn, làm mất hiệu lực của giới hạn kiểm soát.
Trường hợp 7: Mười bốn điểm liên tiếp tăng giảm xen kẽ, có thể do bất kỳ sự kiện hóa học, cơ học hoặc tâm lý hàng ngày hoặc hàng tuần, tần suất lấy mẫu và tần suất biến đổi của quá trình giống nhau.
Trường hợp 8: Mười lăm điểm liên tiếp nằm trong vùng C trên cả hai phía của đường trung tâm, có thể do mẫu (nguồn gốc) đã được sàng lọc loại bỏ các điểm xấu.








